|
Mười hai phương châm tu
dưỡng và hành xữ của môn sinh Vovinam Việt Võ Ðạo
Suốt đời người,
mổi chúng ta thường nghĩ thường ngày là - chúng
ta phải nghĩ gì ? - chúng ta phải làm gì ? - phải làm
thế nào để thành công ? Khi giải đáp xong
một trong những câu hỏi đó là chúng ta đã tìm
ra được một phương châm - Phương châm:
nghĩa ngắn gọn là cái kim chỉ phương hướng
để tiến tới, và theo nghĩa rộng là xu hướng,
là con đường phải đi mà ta muốn đi -
Đi đường : "Đôi mắt" là phương
châm của thân thể - Suy nghĩ : "Óc" là phương
châm của tìm tòi, lựa chọn, phân biệt. Như
vậy trong mọi ngành sinh hoạt xã hội, từ người
thợ, nhà nông, thương gia, tu sỉ, người lính...
ai cũng có phương châm cho công việc, đời
sống của mình để biết rằng mình phải
nghĩ gì, làm gì và làm sao cho được thành công.
Việt Võ Đạo Sinh cũng
vậy, rất cần phải có phương châm để
tu thân dưỡng tính, hành động và xữ thế,
gọi tắt là Tu - Dưỡng - Hành - Xữ.
Phương châm Tu - Dưỡng - Hành
- Xữ của môn phái Vovinam chính là bó đuốc để
soi sáng con đường học võ của các môn sinh. Có
thể ví võ thuật học được là cái xác, còn
phương châm Tu - Dưỡng - Hành - Xữ. để
tiến tới một nền võ đạo là cái hồn
của các môn sinh. Xác không hồn là xác chết, cũng
như người học võ mà không có phương châm Tu
- Dưỡng - Hành - Xữ. là học lấy cái xác không
hồn của võ thuật dể trở thành vũ phu, thô
bạo. Có mười hai phương châm Tu - Dưỡng
- Hành - Xữ. dành cho cho các Việt Võ Đạo Sinh.
Những phương châm này được chia thành
bốn loại mổi loại có ba phương châm, trùng
một chử đầu để dễ học , dễ
nhớ và để thực hành:
- Luyện thể - Luyện thân -
Luyện khí
- Tận tình - Tận tâm - Tận
nghĩa
- Thường khiêm - Thường
dung - Thường liên
- Lập thân - Lập chí - Lập
nghiệp
Ba phương châm
"Luyện" với bản thân
Đối với bản thân,
Việt Võ Đạo Sinh phải luôn luôn hàm dưỡng
công phu tu luyện, để có gắng bỏ xấu thêm
tốt, bõ dỡ thêm hay, để mổi ngày mỗi thêm
kiện toàn tinh tiến, có ba phương châm tu luyện:
- Luyện thể: Tức lèn
luyện thân thể bằng những phương pháp hô
hấp, vận động thân thể và trau dồi võ
thuật. Tại sao phải hô hấp ? Hô hấp là phương
pháp tối yêu của việc điều động
kinh mạch, làm sao cho tâm thân điều hòa, phóng khoáng.
Hô hấp đúng cách sẽ làm cho tinh thần khỏi
mỏi mệt, khí huyết được lưu thông,
sinh lực dồi dào.
Tại sao phải vận động thân thể ? Chính
vì thân thể con người là nguồn gốc của
mọi cơ năng liên lạc, tiếp xúc với
ngoại vật. Thân thể có cường tráng, con người
mới ham hoạt động và yêu đời, gạt
bõ những ý nghĩ bạc nhược, bi quan yếm
thế. Khỡi đầu hoạt đông thân thể
bằng những phương pháp thể dục, thể
thao thông thường. Sau dó vận động thân
thể bằng những phương pháp luyện "thân
thép" (nội công, ngoại công). Ngoài ra muốn
vận động thân thể có hiệu quả hoàn toàn,
cần tiết chế những thú vui làm tổn hại
sức khỏe.
Tại sao phải trau dồi võ thuật ? Võ thuật là
tinh hoa cao nhất của việc luyện thể. Người
chư có võ công cần võ học để biết cách
vận dụng thân thể, điều động kinh
mạch và biết cách xữ dụng khi lâm sự. Người
có võ công rồi cũng cần luôn luôn trau dồi võ
thuật để sức khỏe và võ học của mình
được luôn luôn tăng tiến.
Cho nên Việt Võ Đạo Sinh phải thường xuyên
nhớ tới phương châm đầu tiên của mìnhtrong
việc tu dưỡng và luyện thể để
ứng dụng trong mọi trường hợp, mọi
hoàn cảnh.
- Luyện trí: Tức rèn
luyện trí tuệ bằng những phương pháp như:
học, tự học, tập quan sát nhận định,
luôn luôn tham gia các cuộc hội ý và hội thảo.
Học: Ở thầy, bạn, trường
học, đường đời, học ở
những người giỏi hơn và luôn cả
những người kém hơn mình nữa. Nên nhớ câu
thành ngữ "ăn vóc, mặc quen" và câu
"học ăn, học nói, học gói, học
mở" nhận thức và chiêm nghiệm.
Tự học: Tức học
một mình, đọc sách, và hàm thụ hoặc chiêm
nghiệm. Từ xưa, biết bao nhiêu danh nhân chỉ
vì có chí tự học từ nhỏ mà đã làm nên
sự nghiệp.
Tập quan sát, nhận định:
Tức tập xem xét, suy nghĩ, tìm hiểu. Người
quan sát, nhận định giỏi là người gây
được thói quen xem xét, suy nghĩ tìm hiểu ,
vừa đúng vừa nhanh. Quan sát nhận dịnh
giỏi đối với người trên đường
đời là chỉ đão mắt nhìn qua đã nhìn ra
sự thiện ác của người đối
diện. Quan sát nhận định giỏi của người
võ sỉ càng cần thiết hơn, vì còn cần trong
cách cư xữ với đời, ứng phó với cơ
nguy chứ không chỉ để thắng lợi mà thôi.
Quan sát nhận định giỏi đối với người
lảnh đạo và chỉ huy là luôn luôn nắm
vững các đầu mủi các sự việc để
đi tới quyết định cuối cùng và tiên
liệu được những gì sẻ tới,
phải tới.
Hội ý: Là những cuộc trao
đổi ý kiến giửa một nhóm năm ba người
. Tất cả những phương pháp luyện trí trên
chỉ giúp chúng ta chỉ giúp chúng ta trở thành
những người tài giỏi đơn độc
trong xã hội. Nói theo cách nói của thời đại
là lối tài giỏi "anh hùnh cá nhân" của
thời trung cổ. Ngày nay trình độ hiểu
biết của loài người có tiến xa hơn,
việc gì cũng có tổ chức tập thể, có tính
cách đại quy mô, nên không thể nào còn tiếp
tục dùng lối sống "anh hùng cá nhân" để
đi tới thành công. Muốn thành công thì phải
" biết mình, biết người" phải điều
hòa chủ quan với khách quan. Muốn điều hòa
chủ quan và khách quan trước hết chúng ta
phải thực nghiệm bằng cách trao đổi ý
kiến với bạn hửu, đồng môn, hoặc
thân nhân của ta. Nhưng hội ý không phải nghĩa
là"ba phải", nhu nhược, thụ động,
mà hội ý là để thông hiểu mọi khía
cạnh của sự việc, của vấn đề
ta cần tìm hiểu , cần có một quyết định
rỏ ràng, sáng suốt, thẳng tắn, nói tránh
khỏi những trường hợp do dự, trì
chậm hoặc làm việc tắc trách.
Hội thảo: Là những cuộc thảo
luận của nhiều người, khi có việc
hội ý gồm nhiều người quá, phải có
tổ chức những cuộc thảo luận công
cộng nhiều người một lúc, vừa để
tiết kiệm thời giờ, vừa để
mọi người có cơ hội có cơ hội phát
biểu ý kiến riêng và đi đến một
quyết dịnh chung: "đó là hội thảo".
Hội thảo khác với hội ý ở chổ:
Hội ý có tính cách thân mật, còn hội thảo có
tính cách công khai, công cộng. Vì thế trong những
buổi hội thảo những ý kiến bất đồng
được phát biểu công khai, dù có hay không có
chủ đích của nó. Điều cần phân
biệt là hội ý khác với hội thảo ở
chổ: có những người khi nói chuyện tâm tình
rất giỏi, nhưng phát biểu giữa đám
đông rất dỡ. Do đó: muốn nuôi hoài bão
lớn lao, đảm đương trọng trách ,
cần phải tham dự những cuộc hội
thảo và tập quen với lối phát biểu ý
kiến tại những nơi công cộng.
Tóm lại: Việt Võ Đạo Sinh muốn luyện trí
cho đầy đủ , cần phải tự trao đồi
bằng cách: học, tự học, tập quan sát,
nhận định và đồng thời phải
thực tập những điều đã học
hỏi được bằng hội ý và hội
thảo.
- Luyện khí: Tức rèn
luyện thần khí, để tâm thân luôn luôn thanh
thản, sáng suốt khi tìm hiểu và nhận xét
sự việc. Những bậc thánh nhân đạt
được mức độ sáng suốt quán thông
được mọi sự việc, ngoài việc
thiết chế dục vọng, còn một công phu hàm dưởng
tới cao độ. Phương pháp tu dưởng
thần khí gồm có:
- Cố tránh những tình
cảm, xúc động bột phát trong đời
sống. Có bảy tình cảm , cảm xúc gọi là
Hỉ: mừng, Nộ: giận, Ai: buồn, Lạc:
vui, Ái: yêu, Ố: ghét, Cụ: sợ
- Chúng ta chỉ là thường
dân, không phải là thánh nhân nên không thể
tuyệt diệt được những tình cảm,
cảm xúc trên. Tuy nhiên, chúng ta có thể cố
gắng tiết chế bớt những tình cảm,
cảm xúc quá độ. Châm ngôn ta có câu: "quá
giận mất khôn" chính là ở trường
hợp này.
- Đã có những cố
gắng tiết chế bớt những tình cảm,
cảm xúc quá mạnh rồi, ta còn phải biết
lắng tâm tư gạn cho trong, lọc cho hết
những tư tưởng hỗn tạp ở trong lòng,
để thần khí được thanh thoát, sáng
suốt mà giao cảm với vạn vật.
Sau đó: chúng ta còn phải
tập vận dụng về tinh thần và thể
chất:
- Về tinh thần: vận
dụng óc tổng hợp và phân tích để
kết hợp và mổ xẻ mọi sự việc.
- Về thể chất: Tự
luyện một lối sống điều độ,
từ ăn ngũ đến làm việc, cũng luôn
luôn biết điều dưỡng sức khỏe
bằng mọi cách, để có thể chống
đở với mọi thay đổi của
thời tiết , bệnh tật.
Tóm lại: Luyện khí là phương
pháp quay nhìn vào thân thể, nhằm mục đích rèn
luyện cho tinh thần được thanh thản, sáng
suốt, bình tỉnh để hành xữ trong mọi trường
hợp, mọi hoàn cảnh.
Ba phương châm
"tận" đối với đời
Cố gắng tu luyện về
thể, trí và khí Việt Võ Đạo Sinh còn phải
đối xữ tận tình , tận tâm và tận nghĩa
với đời để cuộc sống có ý nghĩa hơn
và để mổi ngày ta hiểu ta hơn, hiểu người
hơn và có thêm được nghiều người thông
cảm, thương mến ta hơn trong cuộc sống. Có
thế Việt Võ Đạo Sinh mới thâu hái được
thành công khi truyền bá tinh thần Việt Võ Đạo
với quần chúng và phản ảnh được tinh
thần tự giác, vị tha, nghỉa hiệp, dũng
cảm, hướng thượng của môn phái Vovinam, có
ba phương châm đối xữ với người:
- Tận tình: Tức đối
xữ với tất cả cảm tình đôn hậu mà
mình có. Muốn thế phải yêu đời phương
châm này áp dụng vào thực tế có bốn trường
hợp để đối đải:
- Tận tình với thân
hữu: là luôn luôn giúp đỡ bạn bè với tình
tương ái. Tình tương ái ở đây là: yêu
kính lẫn nhau, không quản ngại những sự
hy sinh thua thiệt, để tình cảm càng ngày càng
đằm thắm hơn.
- Tận tình với đồng
môn: đồng môn là bạn võ trong môn phái,
những người bạn đã cùng đứng
chung một hệ phái võ thuật và cùng chung một
một lý tưởng võ đạo. Đối
với các đồng môn, Việt Võ Đạo Sinh
phải luôn luôn giử vững tinh thần đồng
cam cộng khổ, tức là cùng nhau chia xẻ
những vinh nhục của môn phái trong mọi hành
động hành xữ.
- Tận tình với các võ
hửu: võ hữu là danh từ gọi chung những
ngưởi bạn võ thuộc các võ phái khác. Tuy không
đứng chung một môn phái với mình, nhưng cũng
là những người bạn cùng theo đuổi
một mục đích võ học nào đó như mình.
- Tận tình với đời:
Đời tức là cuộc đời, bao gồm
mọi thành phần xã hội, vì xã hội có
thể tốt hay xấu, nên người có trăm
ngàn tính tình khác nhau. Người đời không
phải là bậc thánh cũng như không phải là
bậc thánh cũng như không phải là quỷ
dữ, nên ai cũng có những tính tốt , tính
xấu. Đối với tính tốt ta khích lệ,
đối với tính xấu chúng ta giúp họ
sửa đổi với tình cảm đôn hậu,
đó là lối đối xữ tận tình.
Muốn đối xữ tận tình với đời,
ta phải luôn luôn giử vững lòng từ ái, yêu
thương tất cả mọi người,
bằng ngôn ngữ, cử chỉ, và việc làm
thực tế.
Tóm lại: phương châm "tận tình" áp
dụng trong cách hành xữ với đời là : tương
ái với thân hữu, đồng cam cộng khổ
với đồng môn, tương liên với võ
hữu, và từ ái với đời.
- Tận tâm: Tức đối
xữ hết lòng với bạn bè với đời.
Đã đối xữ tận tình còn phần phải
đối xữ tận tâm nữa . Có những người
đối xữ với nhau tận tình, nhưng không
tận tâm giúp đỡ nhau. Tận tình bộc lộ
ra ngoài, tận tâm thì lắng đọng bên trong.
Tận tình bộc lộ trong một lúc, một trường
hợp, một hoàn cảnh. Tận tâm lắng đọng
mãi mãi, trong sự sâu kín trong tâm hồn. Do đó, tình
cảm khi càng vào sâu, càng âm thầm kín đáo, sâu
sắc. Điều cần phân biệt Việt Võ Đạo
Sinh không phải là người tu sĩ , hay nhà hiền
triết sống trong tháp ngà suy tưởng, mà người
thực tế, người hành động, nên phải
áp dụng những tính tình tốt kia vào hành động,
vào thực tế. Phương châm tận tâm khi áp
dụng vào thực tế cần có ba đức tín: chí
thành, chí tín và chí công.
- Chí thành: là lúc đối
đải bao giờ cũng lấy sư thành
thật làm căn bản. Nên nhớ, kẻ giả
dối chỉ có thể thành công nhất thời, người
thành thật thành công trường cửu. Giả
dối là lâu đài xây trên bải cát còn thành
thật là cây đại thụ bắt rễ vào lòng
người.
- Chí tín: là lúc nào cũng trong
lởi hứa, lời nói. Thà không nói không hứa,
nhưng đã nói, đã hứa là phải làm. Đó
là chí tín! Người có đức chí tín sẽ luôn
luôn gây được niềm tin trong lòng mọi người
chunh quanh, đó cũng là mộtn trong những bí
quyết thành công.
- Chí công: là lúc nào cũng
trọng công bằng, chánh trực, luôn coi trọng
mọi người như nhau, đối xữ công
bằng với mọi người, không để tình
riêng xen lẫn vào việc đối đải
chung. Người có đức chí thành rồi
phải giử đức chí tín nữa, vì chí tín là
mặt ngoài của sự đối xữ thành
thật trong việc giao dịch với mọi người.
Chí tín rồi phải giử đức chí công
nữa, vì chí công lại là cách cư xữ, đối
đãi trong mọi trường hợp.
Tóm lại, phương châm tận tâm vừa hàm dưỡng
những đức tín, vừa ứng dụng
những đức tín này vào hành động, vào
thực tế. Phương châm tận tâm gồm 3
đức tín chí thành, chí tín, và chí công.
- Tận nghĩa: Tức đối
xữ có nghĩa, thủy chung với cả mọi người,
phương châm này có hai trường hợp áp
dụng:
- Đối với bạn và
đời: Những người thân hay sơ, không cùng
chung một lý tưởng. Tuy nhiên, với tinh
thần võ sỉ đạo, bao giờ ta cũng
giữ một lòng thủy chung, không đổi
dời, không phản bội, bất cứ vì lý do nào
và trong trường hợp nào. Bởi vậy
Việt Võ Đạo Sinh khi giao kết cộng tác
với ai, phải thận trọng ngay từ đầu.
Nếu trong trường hợp bất đắc dĩ
phải thay đổi ý kiến, chỉ thay đổi
ý kiến bằng sự im lặng, rút lui. Tại sao
phải im lặng rút lui? chính vì lổi tại ta
nhận xét kém cỏi, đánh giá lầm người,
lầm việc, nên cách hay hơn hết là im
lặng rút lui vào bóng tối suy tưởng để
rút tỉa kinh nghiệm, để trao dồi bản
lảnh được khá hơn, giỏi hơn,
tốt hơn và nhất là để bảo toàn
được đức tính thủy chung.
- Đối với người
cùng chung lý tưởng, đặc biệt là cùng môn
phái: Môn phái chúng ta đặt căn bản trên tinh
thần võ đạo, có kỷ cương rỏ
rệt. Kỷ cương là nền móng vững
chắc xây dựng và phát huy môn phái. Ta phải nuôi
lòng thủy chung, tận tụy với môn phái, song
song với sự tuân phục, kính mến người
trên. Người trên ở đây là những người
đã đi trước trong việc phát triển và
cũng cố môn phái, những người từng
trải, lịch duyệt, có kinh nghiệm hành
xữ. Ta thủy chung , tận tụy với môn phái
tức là đã thủy chung, tận tụy với
chính ta và với lý tưởng mà ta đang đeo
đuổi: "phục vụ dân tộc và nhân
loại".
Phương châm "Thường"
đối với người
Sau khi tu dưỡng bản thân, rèn
luyện những đức tín đối xữ với
đời, Việt Võ Đạo Sinh phải tự trao
dồi bản lãnh trong việc đối xữ với người.
Người ở đây có thể hiểu là nhân
loại. Có ba phương châm tu dưỡng để
đối xữ thường ngày với mọi người
trong cuộc sống, dù là thân hay sơ quen hay không quen
biết.
- Thường khiêm: Tức là
lúc nào cũng khiêm nhường. Nói thì dễ nhưng
làm rất khó, vì tuổi trẻ nhiều tự ái, thích
nói nhiều hơn nghe. Vì vậy, muốn đạt
tới công trình tu dưỡng này, Việt Võ Đạo
Sinh phải luôn luôn khả ái , dịu dàng, nhã nhặn
để được cảm tình thương
mến mọi người.
- Thường dung: Tức lúc
nào cũng tiếp nhận, bảo bọc người,
kể cả đối kẻ thù địch. Luôn luôn
tự hỏi xem lòng mình có rộng rải bao dung người
không. Đức tính bao dung đã nẩy nỡ trong lòng
thương yêu, tha thứ mọi người và
gạt bỏ được mọi phán đoán
khắc nghiệt, mọi hành động cứng
nhắc cùng với sự ghen ghét, đố kỵ. Và
cũng chính đức bao dung đã biểu lộ
được cái hùng khí, rộng lượng của
Việt Võ Đạo Sinh và cảm hóa được
kẻ lầm lổi trỡ về với đường
ngay lẽ phải.
Nên nhớ, khắc khe xét nét người ai mà chẳng
làm được nhưng rộng lượng bao dung thì
chỉ có những người có có tinh thần
sống cao thượng , phong phú mới làm được.
- Thường liên: Tức luôn
luôn kết liên, hòa hợp với mọi người.
Cuộc sống của con người đầy
dẩy những bất trắc, đổi thay, phiền
não. Thực lòng hòa đồng, kết liên với nhau
chưa hẳn đã thành công trên đường đời,
nữa là đối xữ hời hợt, khinh bạc
với người. Việt Võ Đạo Sinh yêu thương
bao dung người không phải chỉ ở lời nói
xuông là đủ. Phải biều lộ bằng hành
động , bằng thái độ niềm nỡ, khoáng
đạt tỏ ra là mình hòa đồng, kết liên
với người thực sự.
Muốn thế, phải có những hành động minh
bạch, có ý thức để mọi người
dể dàng cảm thấy, nhận thức được.
Có hòa đồng, kết liên với người
mới tránh được những hiểu lầm,
hoặc hận thù vô nghỉa và đi đến
sự tương thân, tương trợ. Tương
thân, tương trợ chính là hành động rỏ
rệt nhất của việc kết liên, hòa hợp
với mọi người.
Tóm lại, phương châm thường liêm chính là
nhằm mục đích cụ thể hóa lòng yêu thương,
bao dung người và làm cho nhân loại thông cảm, tương
thân, tương trợ nhau hơn. Đó chính là
một yếu tố quan trọng cho công cuộc an
lạc xã hội vậy.
Ba phương châm
"Lập" đối với xã hội
Sau khi tu dưỡng bản thân, rèn
luyện những phương châm đối xữ với
đời, với người, Việt Võ Đạo Sinh
phải luôn luôn có óc thực tế. Nghĩa là phải có
ý niệm và tổ chức đời sống sao cho
xứng đáng với danh dự người Việt Võ
Sỉ. Có ba phương châm thể hiện ba nguyện
vọng trong đời sống phải thực hiện
để kiện toàn trong công cuộc làm người.
- Lập thân: Tức phải
xây dựng cho mình một chổ đứng trong xã
hội. Có đứng vững trong xã hội, mới có
thể tự làm thăng hoa những năng khiếu,
ưu điểm, về tinh thần cũng như
vật chất để tự tồn, muốn thế
chúng ta phải giữ:
- Vững đời sống tinh
thần: Luôn luôn thêm tốt bỏ xấu, thêm hay
bỏ dơ,?rong mọi trường hợp hành
xữ. Lầm lẫn, bị mê hoặc, bị
dối gạt cũng là những nhược điểm
tỏ ra tinh thần không vững . Muốn thế
phải luôn luôn trao dồi tinh thần, tức là
đức tính được vững vàng phong phú.
- Vững đời sống
vật chất: Phải có một đời sống
vật chất đầy đủ, độc
lập trong xã hội. Tại sao cần có một
đời sống vật chất đầy đủ,
độc lập trong lòng xã hội?. Chính vì đời
sống vật chất có vững vàng, mới
gạt bỏ được những ý nghĩ
nhờ vã, ỷ lại, dựa dẩm khi hành
xữ, để có thể giử được
độc lập được tư tưởng,
giử vô tư được tinh thần, không
bị chi phối bởi những nhu cầu vật
chất thông thường.
Hằng ngày, đọc báo chúng ta thấy có
biết bao các thanh niên nam nữ vì đời
sống vật chất không vững, nên đã
tự làm hủy hoại thân danh, vì những
việc làm điếm nhục đến công ơn
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và xã
hội.
Việt Võ Đạo Sinh phải tâm niệm
rằng: đi đôi với tinh thần phong phú,
cần phải độc lập về đời
sống vật chất nữa, mới có thể
lập thân nữa. Nhưng ngược lại, độc
lập về đời sống vật chất cũng
không có nghĩa là tìm cách làm giàu bằng được,
rồi mới nghĩ tới đời sống tinh
thần, mà phải song song nghĩ tới việc phát
huy cả đời sống tinh thần lẫn
vật chất cũng được phong phú,
vững chắc như nhau. Như vậy mới thoát
được những ảnh hưởng xấu
trong xã hội làm hư hỏng mọi công trình tu dưỡng
đời sống tinh thần của chúng ta.
- Lập chí: Tức phải
gầy dựng cho mình có chí hướng. Vì sau khi đã
lập thân ròi, nếu không có một ý hướng cao
cả để phụng sự và tiến tới, con người
sẽ chẳng khác gì loài vật: "chỉ cốt
ăn no, ngủ kỹ, yên phận"
Có chí hướng, cuộc sống của chúng ta
chẳng những có nhiều niềm thú vị hơn, mà
còn khiến cho chúng ta cảm thấy được
sống xứng đáng hơn với nghỉa vụ làm
người của mình.
Chí hướng của chúng ta chính nhằm vào việc
phụng sự dân tộc và nhân loại. Phụng
sự dân tộc nghĩa là làm bổn phận người
dân, phụng sự nhân loại nghĩa là làm bổn
phận làm người. Muốn làm được hai
nghỉa vụ cao cả đó, Việt Võ Đạo
Sinh phải lập chí ngay từ lúc thiếu thời, càng
sớm bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Đó là chí
hướng cao cả của mổi chúng ta. Và đó là
lý tưởng mà môn phái Vovinam Việt Võ Đạo
đang theo đuổi.
- Lập nghiệp: Tức là
phải gầy dựng cho mình một sư nghiệp.
Tất cả những công trình của những việc
làm có lý tưởng của mổi chúng ta thâu hái
được kết quả tốt, đều gọi
là sự nghiệp. Vì thế, sự nghiệp là
phần thưởng cho mổi cá nhân sau khi hoàn thành
sứ mạng phục vụ ích lợi chung. Sự
nghiệp khác với danh phận ở chổ là sự
nghiệp thuộc ích lợi chung, danh phận chỉ
biểu dương tên tuổi địa vị mình có,
không nhất thiết là có thuộc ích lợi chung hay
không.
Việt Võ Đạo Sinh cần chú trọng tới
sự nghiệp, đặt sự nghiệp lên trên danh
phận. Ví dụ: cũng là võ sư, nhưng có
thể người này có sự nghiệp mà người
kia chưa có, tuy cả hai cùng có danh phận là võ sư.
Sự nghiệp bao giờ cũng hàm chứa ý nghỉa
tốt đẹp, danh phận chỉ là cái cầu.
Sự nghiệp là một khunh cảnh lớn, do đó
chúng ta cần chú trọng tới sự nghiệp hơn
là chú trọng tới danh phận, vì sự nghiệp còn
mãi, nhưng danh phận có thể chỉ có tính cách
nhất thời.
Muốn thế ta phải nghỉ tới việc lập
nghiệp. Lập nghiệp là con đường tạo
cho một nghị lực phi thường , vượt
trên mọi gian lao khổ hạnh để tìm hướng
hạnh phúc lâu dài.
Người tha thiết đến sự nghiệp
là người có một tinh thần, ý chí, nghị
lực bền bỉ, không hề kiêu hảnh khi thành công,
không hề nãn lòng khi thất bại. Không một
sự nghiệp nào lại không hao tốn mồ hôi và
nước mắt, đôi khi cả xương máu
nữa dể có thể thành công. Vì thế người
có chí lập nghiệp là người không bao giờ
sợ khó, ngại khổ, vì hiểu rằng muốn
gầy dựng nên sự nghiệp, cần phải
tự thắng mình trước đã.
Tóm lại: lập thân, lập chí, và lập
nghiệp là ba phương châm căn bản để
Việt Võ Đạo Sinh biết sống cho ra sống ,
biết hành xữ cho hợp tình cảnh, để
đạt tới một lý tưởng cao đẹp
cho đời sống bằng công phu tu dưỡng
của mình: công phu tu dưỡng hành xữ của
Việt Võ Đạo Sinh

|
|