THƯ CHƯỞNG MÔN 3
Thường Dũng - Ðại Dũng
Tự Chủ, Tự Thắng, Cương Trực và Tận Tụy
Các môn đệ thân mến,
Bàn tay thép và Trái tim từ ái cũng được biểu tượng cho đức
Dũng và Lòng Nhân.
Trong đời sống, chúng ta thường gặp những hành động biểu lộ
về đức dũng: Người chiến sĩ vượt qua những trở ngại, thử
thách gian lao để hoàn thành nhiệm vụ; người con gố gắng khắc
phục mọi khó khăn để phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh
hoạn; người có tinh thần trách nhiệm cao vượt qua mọi cạm
bẩy mua chuộc để chu toàn trách vụ. Tất cả đều biểu hiện lòng
can đảm, sức chịu đựng, tận tụy với nghĩa vụ gọi là Ðức
dũng. Nhưng dũng có hai mức cao thấp khác nhau được gọi là THƯỜNG
DŨNG và ÐẠI DŨNG.
THƯỜNG DŨNG là cái dũng nhất thời được biểu hiện trong cử
chỉ, thái độ và hành động chống đối, không chịu khuất
phục của con người khi gặp những điều sai trái. Thường dũng
do hoàn cảnh tạo nên, do đỏm lược coi nhẹ tử sinh, đương đầu
với mọi khó khăn, nguy hiểm, nhằm giải quyết những sự việc
trước mắt và hữu hạn.
ÐẠI DŨNG là cái dũng có tính cách lâu dài, biểu lộ qua sự
chịu dựng, nhẩn nhịn để vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn
với thái độ trầm lặng, lúc nào cũng bình thản, thông suốt,
tự tại, ung dung. Có những việc làm lâu dài mà không ai thấy, có
khi suốt cả cuộc đời mới chứng tỏ được là đại dũng. Ðiều
động binh sĩ phản công, quyyết tiêu diệt quân Mông Cổ, Hưng Ðạo
Vương Trần Quốc Tuấn trỏ gươm xuống sông Hoá mà thề: Không
dẹp xong giặc, quyết không trở về khúc sông này nữa. là biểu
lộ thường dũng, do tình thế bắt buộc. Nhưng lúc nghe tin Thoát
Hoan sắp đưa 300.000 quân Mông Cổ sang đánh lần thứ hai, trong khi
đất nước đã cạn kiệt vì bị giặc tàn phá, lực lượng quân
bị còn yếu kém, thưa thớt chưa kịp hồi phục, Ngài vẫn bình
tỉnh, sáng suốt nhận định, thảo hịch khích động, thôi thúc
tinh thần chiến đấu của ba quân, hợp hội nghị Diên Hồng,
chỉnh đốn hàng ngũ với chủ trương quân quí về tinh nhuệ, không
quí về nhiều và tâu với vua Trần Nhân Tông khi bàn về việc ngăn
giặc Năm nay đánh giặc dễ, đã chứng tỏ đức đại dũng của
ngài.
Ðức đại dũng có khi cả đời người mới biểu lộ được. Lê
Lợi kháng Minh, năm năm đầu thất bại chạy dài, vợ con đều
chết thảm, vẫn kiên trì dũng cảm chiến đấu mãi. Sau đó, mới
đổi chiến pháp Tránh chổ địch mạnh, đánh nơi địch yếu; cũng
phải năm năm sau mới chiến thắng hoàn toàn và mới chứng tỏ
được là bậc Ðại Dũng.
Vậy trong đời sống hiện thời, người môn isnh VOVINAM VIỆT VÕ
ÐẠO nên ứng dụng thường dũng hay đại dũng ?
Tùy trường hợp mà ứng dụng. Thường dũng giúp chúng ta đương
đầu với hoàn cảnh để biểu lộ cái hùng khí của con nhà võ và
giải quyết cấp thời những khó khăn trở ngại. Hơn nữa, khi
bực đọc mà không dám tỏ thái độ, bị áp chế mà không có
tinh thần đối kháng thì làm sao tâm hồn có thể thảnh thơi ? Ðiều
quan trọng là phải tỏ thái độ chống đối theo chiều hướng
trầm tỉnh, ôn hoà, dẫn dụ, thuyết phục để người phải thay
đổi quan điểm và cách đối xử.
Chúng ta cũng cần đại dũng, vì đại dũng giúp chúng ta rèn
luyện nghị lực, tinh thần và đức độ đến mức dật lạc, siêu
khoáng để có thể an vui trước mọi hoàn cảnh, thản nhiên trước
mọi thành bại, vượt trên mọi ưu tư hay thoả mãn tự ái giai đoạn,
ngõ hầu biết mình phải sống ra sao, phải làm gì cho tương lai,
cho đại nghĩa?
Tuy nhhiên, cần phân biệït những kẻ hoạt đầu tỏ vẽ ta đây
có hoài bảo lớn, theo đuổi sự nghiệp phi thường, không quan tâm
giải quyết những việc nhỏ nhặt thường ngày, thiếu chuyên
nhất trong hành xử, khôn khéo né tránh mọi đụng chạm dù lớn
hay nhỏ với bất cứ ai thì chỉ là kẻ thời cơ, cầu an, vụ
lợi.
Dù đại dũng hay thường dũng cũng đều nẩy sinh từ sự thực
hiện những việc bình thường tích lũy hằng ngày (như quyết tâm
dậy sớm, từ bỏ nghiện ngập, chuyên cần nhẩn nhịn...) Không có
quan niệm sống đứng đắn rỏ rệt, thiếu chuyên nhất, làm
việc chóng chán hay thay đổi thì chỉ là kẻ đơn hèn, nhu nhược,
nói chi đến chuyện đại dũng, thường dũng.
Muốn xứng đáng mang danh môn isnh VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO, có tinh
thần dũng cảm, chúng ta phải trau dồi, tu tập bốn đức tính:
Tự Chủ, Tư Thắng, Cương Trực và Tận Tuỵ với nghĩa vụ.
1. Tự chủ: Con người là phần tử của gia đình, gắn bó với
cộng đồng dân tộc và nhânloại. Trong sự hoà nhập chung sống
nếu không có đức tính tự chủ sẽ dễ bị đồng hoá của
ngoại cảnh, luôn triển khai nội tâm, luyện ngũ quan cho thật bén
nhạy và làm chủ được sự bén nhạy đó. Sau hết, luyện thân
khí cho được ung dung, thanh thản, không cầu cạnh, ước ao gì
cả.
2. Tự Thắng: Mọi người đều có một số ưu điểm, nhược điểm.
Trong lịch sử, chúng ta thấy có biết bao vua chúa, danh tướng
lẩy lừng một thời đã bị danh vọng, tiền tài, gái đẹp làm băng
hoại, tha hoá đi đến sụp đổ. Cụ thể trong hiện tại, có
nhiều chiến sĩ yêu nước đã chiến thắng vẻ vang quân thù lại
trở thành những kẻ tiêu cực tham ô, nên đã thân bại danh
liệt, chỉ vì họ không tự chế, tự thắng được những nhược
điểm trong con người của mình.
Muốn có đức tính tự thắng, chúng ta phải kiên nhẫn nghe từ
những điều chưa biết đến những điều đã biết, nghe cả
những điều phải, lẫn những điều trái để hiểu rõ nguyện
vọng của người, để tập thói quen tôn trọng và nghỉ tới người.
Kiên nhẫn học hỏi ở mọi người, trong mọi trường hợp, liên
tục trong đời sống, Kiên nhẫn trong việc xử thế, là gặp trường
hợp bị đối xử bất công, thô vụng, lầm lẫõn, chúng ta vẫn
kiềm chế được tính nóng nảy hiếu thắng,vẫn ung dung nhu nhã
với tinh thần thông cảm hoà giải, không tức khí nổi quạu, ăn
miếng trả miếng tùy hứng. Kiên nhẫn hành động sẽ giúp chúng
ta vược qua được mọi khó khăn trở ngại, thắng phục được
những thất bại trên đường đời nhất là khi mới vào đời để
đạt thành công cuối cùng.
3. Cương Trực: Ðây là đức tính đặc biệt của con nhà võ. Nhưng
chúng ta cần phải hiểu: cương là cương quyết trong tinh thần, hoà
nhã ngoài thái độ. Trực là ngay thẳng một cách tế nhị, chứ
không là tính cứng cỏi, thô lỗ của kẻ thất phu và sự ngay
thẳng của người điên khùng. Tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam
có Lý Thường Kiệt, Chu Văn An, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi
v.v... là những người cương trực dám nói, dám làm, dám lãnh trách
nhiệm về những lời nói của mình.
Không có sự kiên quyết nào vững chắc bằng sự cương quyết
trong tinh thần. Khi tinh thần đã nhất quyét rồi thì thái độ
phải tỏ ra ôn hoà,nhu nhã. Chình thái độ ôn hoà,nhu nhã đã nói
lên sự quyết tâm đến cùng cực. Ngưới cương quyết pahỉ là
người có ý thức vững hcắc rằng, mình nên nghĩ gì, phải làm gì
? Và khi đã quyết đoán, là quyết tâm theo đuổi chí hướng củ
mình đến cùng.
Ngay thẳng là một đức tính được mọi người cảm mến, nhưng
không đồng nghĩa với chất phác thẳng ruột ngựa. Ngay thẳng
cứng nhắc làm cho mọi người phiền lòng, phật ý và khiến mình
luôn bị thua thiệt thất bại. Phải ngay thẳng một cách linh động
khéo léo, không bao giờ được đối trá nhưng cũng không nên
thật thà lố bịch, nói hết những điều không đáng nói, gây xáo
trộn, thất vọng cho người. Ðó là ngay thẳng một các ?thẳng
ruột
4. Tận tụy với nghĩa vụ: Với lý tưởng tập thể, với sứ
vụ sư môn, Tổ Quốc và Nhân Loại, chúng ta phải hết lòng, tận
dụng mọi khả năng thực hiện nghĩa vụ bằng được, dù có hy
sinh tính mạng, song phải hy sinh cho đúng chổ, đúng lúc, trong
phạm vi trách nhiệm của mình. Nếu ngoài phạm vi trách nhiệm mà
cứ nhắm mắt hy sinh thì chỉ là người bất trí, thiếu sáng
suốt, không thông tình đạt lý, không quán triệt công nghĩa khác
với tư ân tư lợi. Thí dụ: Khi được người hiểu rõ khả năng
của ta, tin cẩn trọng dụng ta, và từ đó cũng là lợi ích chung
cho mọi người thì ta nên đem hết tâm lực ra làm việc; còn nếu
đấy chỉ là âm mưu mua chuộc, trí trá bất minh, để giành
thắng lợi riêng tư thì ta không thể tận tụy hy sinh mù quáng
được.
Tận tụy với nghĩa vụ giúp ta nâng cao phẩm cách, và trở thành
con người năng động, yêu người yêu việc, biết học tập để
kiện toàn, có tinh thần trách nhiệm cao. Trau dồi, tu tập được
bốn đức tính trên, chắc chắn chúng ta sẽ tạo được phong cách
sống đặc thù cho mình, để trở thành người hiệp sĩ thời đại,
thể hiện được tinh thần và ý nghĩa:
BÀN TAY THÉP ÐẶT LÊN TRÁI TIM TỪ ÁI
